Con người hiện đại cần triết học để làm gì?
Ngày triết học thế giới được tổ chức vào thứ Năm của tuần thứ ba vào tháng 11 hằng năm, và được bắt đầu từ năm 2002 theo quy định của Unessco. Ý nghĩa của ngày triết học thế giới ở chỗ muốn nhắc nhở con người hướng về những di sản triết học của nhân loại, gợi mở ra những tư tưởng mới. Nhiều nhà tư tưởng đã khẳng định rằng: bản chất của triết học là sự ngạc nhiên. Thật vậy, triết học được sản sinh ra từ khát vọng tự nhiên của con người khi quan tâm đến chính bản thân mình và thế giới xung quanh. Triết học có nghĩa là “tình yêu sự thông thái”, triết học dạy chúng ta nghiên cứu và tìm kiếm những chân lý cơ bản. Triết học không đơn giản là một học thuyết, nó có thể trở thành một cách sống, nếu áp dụng nó vào đời sống thực tiễn.
Trong ngày này, chúng tôi đã đề nghị một vài trong số những nhà triết học đương đại trả lời hai câu hỏi:
1. Làm thế nào triết học có thể giúp đỡ con người hiện đại?
2. Triết học đã làm thay đổi điều gì trong cuộc sống của họ?
Tiến sĩ triết học, giáo sư, Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Nga, trưởng bộ môn Bản thể luận và nhận thức luận, khoa triết học, trường đại học Quốc gia Moscow mang tên Lomonosov, trưởng khoa Triết học trường đại học Quốc gia Moscow mang tên Lomonosov.
1. Đây là một câu hỏi hay và nó đã được đặt ra trong hơn 2500 năm triết học tồn tại. Một câu trả lời đơn giản là: nếu triết học tồn tại, thì có nghĩa là chúng ta cần triết học. Bởi vì ngay sau khi xuất hiện con người tư duy, con người đã bắt đầu nhận thức những thảm kịch, bi kịch về tình trạng của chính mình trong thế giới, nhận thức được những bất công: một mặt, con người tự nhận ra rằng con người có một cái gì đó khác với động vật, rằng trái đắt là hữu hạn, cuộc sống là hữu hạn, còn vũ trụ thì vô hạn. Đây là một bi kịch, khi con người hiểu biết nhiều thứ và đồng thời cũng biết về cái chết của chính mình. Điều này có thể là một trong những vấn đề trung tâm đầu tiên. Đây là một trong những câu hỏi mà con người luôn luôn tìm cách trả lời nó.
Jaspers nói rằng, triết học bắt đầu những câu hỏi của trẻ con. Có nghĩa là đứa trẻ có khả năng đưa ra những câu hỏi triết học. Tôi trước đây không hề quan tâm đến vấn đề này, nó giống như một câu nói đẹp đẽ bình thường. Nhưng sau đó tôi đã hiểu rằng, đằng sau nó là một chân lý vô cùng sâu sắc. Tại sao? Bởi vì người lớn bị khống chế bởi một lượng lớn những khuôn mẫu văn hóa: họ biết cái gì được hỏi một cách thoải mái và cái gì không. Còn trẻ con mọi thứ đều thoải mái. Trẻ con có thể đặt một câu hỏi tùy tiện, bề ngoài có vẻ đơn giản, nhưng khi ta cố gắng trả lời nó, ta mới thấy nó phức tạp đến nhường nào. Thế trẻ con là gì? Đó là khởi điểm của nền văn minh, là điểm khởi đầu của nhân loại. Tại sao nói rằng, triết học được bắt đầu từ sự ham hiểu biết. Con người bắt đầu đưa ra những câu hỏi giản đơn. Nếu ai đó nghĩ rằng, triết học bắt nguồn từ những câu hỏi phức tạp, thì điều này hoàn toàn không chính xác. Những câu hỏi phức tạp là có, nhưng nó lại được bắt nguồn từ những câu hỏi đơn giản. Một vấn đề khác – nhà triết học phải trả lời tương đối đơn giản trên những câu hỏi phức tạp. Bởi vì, nếu chúng ta đàm thoại về triết học trong một hội nghị bàn tròn của các nhà triết học, và chúng ta nói về những tiêu chuẩn của đạo đức, chúng ta “sẽ đi đến một thống nhất với nhau”. Nhưng sau đó chúng ta sẽ giải thích điều này như thế nào với mọi người? Và chính vì thế cho nên con người thường hay nói triết học thật là khó hiểu. “Triết học làm sáng tỏ những thứ mơ hồ trong thần thoại”, Hegel hoặc là Kant đã nói như thế. Bây giờ họ có thể đã sai lầm. Có nghĩa là, triết học, về nguyên tắc, phải được làm sáng tỏ. Không được “làm mờ” bộ não, mà phải làm cho nó sáng tỏ. Và một người, khi nói không hiểu gì, thì rõ ràng anh ta không thể xem bản thân là một nhà triết học được. Đây là quan điểm của tôi. Do vậy, triết học luôn luôn là một nhu cầu của con người.
2. Nhà triết học – là cái được đánh thức ở con người. Tốt nghiệp khoa triết học không đảm bảo rằng một người sẽ trở thành một nhà triết học. Jakob Böhme đã từng là một người thợ đóng giày, Spinoza đã từng là một người thợ lắp kính. Việc học tập tại khoa triết học – đó là một trường học cho phép bạn bừng tỉnh dậy trong triết học. Nhưng mỗi người tự mình sẽ trở thành một nhà triết học. Ở đó, anh ta nhận thức được một cấp độ nhất định rằng anh ta có một quan điểm xác định về thế giới, hoàn toàn khác so với những gì mà người không nghiên cứu triết học có. Luôn luôn có những phần chúng ta không thể nào hiểu được, chúng ta đang cắt từ tồn tại một mảng lớn, và cố gắng ôm trọn toàn bộ tồn tại này, nhưng không giờ ôm trọn được nó – luôn có những phần chúng ta không thể nào hiểu được. Và ở đây, triết học cũng vô cùng quan trọng. Có một cách nói như thế này: Triết học như là những giàn giáo trong khoa học. Có lẽ các giàn giáo này không còn cần thiết nữa khi tòa nhà đã được xây xong, đã được sơn xong, nhưng để tạo được tòa nhà đó, chúng ta cần phải xây dựng hệ thống giàn giáo cho phép tòa nhà được hoàn thiện – một chức năng khác của triết học. Cho nên, tôi nghĩ rằng, triết học luôn luôn tồn tại. Mặc khác, xuất hiện một vấn đề, triết học giống như vị vua Lear, người đã cho trẻ em tất cả đất đai của mình và không giữ lại bất cứ một thứ gì cả. Nhưng ở đây không phải vậy, từ triết học, các nguyên lý được nảy mầm, mang tính tự thân, đồng thời các đối tượng của triết học được thanh lọc. Cho nên, triết học nghiên cứu cái phổ quát, nghiên cứu tồn tại. Triết học là siêu hình học. Đây là những môn học mà chỉ có thể nghiên cứu với sự giúp đỡ của lý tính. Bằng bộ não của mình, tôi có thể tranh luận được bao nhiêu về bản chất và kỳ vọng bao nhiêu trong việc đạt tới chân lý? Triết học đã được bắt đầu như thế này: không có vật lý học, không có cái gì tồn tại, và con người đã trả lời cho những vấn đề về cấu trúc của thế giới. Và ở con người luôn luôn tồn tại cố hữu một nhu cầu: nhu cầu giải thích.
Còn nữa...
Xem tiếp phần II: Yiuri Nikiphorovich Solonhin
Mai K Đa dịch từ tiếng Nga
Xin trích nguồn http://triethoc.info của bài viết này
Đánh giá bài viết?