Văn hóa, triết lý và triết học
Lương Việt Hải
Phó giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Phó viện trưởng Viện Triết học,
Viện khoa học xã hội Việt Nam
Tạp chí Triết học
Nguồn: http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/van_hoa_triet_ly_va_triet_hoc-e.html
Bài viết góp phần luận giải mối quan hệ giữa văn hóa, triết
lý và triết học. Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ
thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống
triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất
trong nền văn hóa của một dân tộc. Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm
thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó chính là chất liệu của các hệ
thống triết học bác học. Theo tác giả, văn hóa, các triết lý và các hệ thống
triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hóa theo nghĩa rộng.
Văn hóa theo gốc tiếng Latinh (cultura) có nghĩa là canh
tác, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển, tôn trọng. Trong lịch sử, ban đầu người
ta thường đồng nhất văn hóa với tất cả những gì do con người tạo ra. Văn hóa là
hệ thống các nguyên tắc, cách thức, chương trình, phương thức hoạt động sống
thuộc tầng trên sinh học của con người. Hệ thống ấy được hình thành và phát triển
qua quá trình lịch sử và giúp cho việc duy trì và cải biến đời sống xã hội. Các
chương trình, phương thức hoạt động ấy được hợp thành bởi các tri thức, chuẩn mực,
thói quen, lý tưởng, cách hành động, tư tưởng, học thuyết, lòng tin, mục trêu,
định hướng giá trị... Những cái đó lại rất đa dạng, được tích luỹ lâu đời, tạo
thành kinh nghiệm xã hội - một yếu tố cấu thành văn hóa, được di truyền từ thế
hệ này đến thế hệ khác.
Văn hóa gắn liền với phương thức hoạt động sống của con người,
nhờ đó mà phân biệt được sự tồn tại của con vật với cuộc sống của con người. Có
nhiều nhánh quan điểm khác nhau về văn hóa, song nó luôn được xem như quá trình
phát triển lý trí và các hình thức sống cố lý trí của con người, trái ngược với
tính chất hoang dại và man rợ ở thời kỳ trền sử. Văn hóa là đời sống trnh thần
của con người được duy trì và phát triển trong trến trình lịch sử, là sự trến
hóa của ý thức đạo đức, luân lý, tôn giáo triết học, khoa học, pháp luật và ý
thức chính trị, thúc đẩy sự trến bộ của nhân loại. Mặt khác, người ta cũng xem
văn hóa như những điểm đặc thù của một xã hội. Văn hóa là hệ thống các giá trị
và tư tưởng quy định kiểu tổ chức xã hội ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. Các
hệ thống đó là khác nhau và tương đối độc lập với nhau, trong chúng bao gồm
toàn bộ tài sản văn hóa vật chất, tập quán chủng tộc, các dạng ngôn ngữ và các
hệ thống biểu trưng khác.
Văn hóa chỉ là tính tích cực của con người trong hành vi, hoạt
động và giao trếp nhằm tạo ra một thế giới mới - thế giới nhân tạo khác với giới
tự nhiên. Văn hóa như là phương thức thực hiện và điều chỉnh các hoạt động của
con người, là phương diện đặc biệt của đời sống xã hội. Nó tạo ra và truyền tải
từ thế hệ này đến thế hệ khác các nguyên tắc, cách thức, các chương trình trên
sinh học về hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người. Như vậy, văn hóa
không đồng nhất với xã hội mà chỉ là một phương diện đặc biệt của xã hội, hiện
diện trong tất cả các trạng thái xã hội khác nhau và cũng không có một hiện tượng
xã hội nào không chịu ảnh hưởng hoặc không mang dấu ấn của văn hóa.
Văn hóa còn được xem là hệ thống mã code thông tin, mã hóa
các kinh nghiệm xã hội của con người. Kinh nghiệm ấy thể hiện như những chương
trình trên sinh học về hành vi, hoạt động và giao trếp. Nếu trong các hệ sinh học
bao giờ cũng có những kết cấu thông tin đặc biệt đề quản lý và điều chỉnh hệ thống
sinh học ấy (AND, ARN), được gọi là gen, thì trong các hệ thống xã hội gen di
truyền ấy là văn hóa. Các dạng hành vi, hoạt động, giao tiếp được điều chỉnh bằng
các "chương trình, mã văn hoá" nhằm tái sản xuất và phát triển các yếu
tố, các trểu hệ thống xã hội và các quan hệ của chúng, các thiết chế xã hội,
các loại nhân cách đặc trưng cho xã hội đó. Điều đó tương tự như mã di truyền
sinh học điều khiển trao đổi chất để tạo nên các tế bào và các bộ phận của cơ
thể sinh vật.
Mã di truyền xã hội có chức năng chuyển tải từ người này qua
người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác toàn bộ các kinh nghiệm xã hội. Để có
thể truyền tải, bảo tồn được thì khối các kinh nghiệm đó phải được thể hiện dưới
dạng các loại ký hiệu khác nhau, như âm thanh, chữ viết, tiếng nói, điệu bộ,
hình ảnh… Hệ thống các ký hiệu như vậy phải rất đa dạng, phong phú mới có thể
ghi nhận được khối các kinh nghiệm xã hội vốn thường xuyên được đổi mới, bổ sung
và phát triển. Hệ thống ký hiệu ấy cũng là một trong những yếu tố cấu thành của
văn hóa.
Trong giới tự nhiên thứ hai, các sản phẩm do con người tạo
nên cũng là những ký hiệu dưới các dạng thức và ý nghĩa khác nhau. Các vật thể
văn hóa vật chất đóng vai trò kép trong đời sống con người: một mặt, chúng phục
vụ trực tiếp mục trêu thực tiễn, cụ thể cho các nhu cầu hàng ngày của con người,
như ăn, mặc, ở, đi lại... Mặt khác, chúng lại là phương tiện bảo tồn, chuyển
giao các chương trình (programs), ý nghĩa, nội dung, phương thức điều chỉnh hoạt
động, hành vi, giao tiếp. Dưới góc độ ấy, giới tự nhiên thứ hai mang ý nghĩa và
nội dung văn hóa sâu sắc.
Các thành tố văn hóa trong hệ thống chỉnh thể bao hàm và gắn
kết lẫn nhau tạo nên những cái chung, những triết lý mang tính thế giới quan,
trong đó tích trữ những kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được. Chúng không phải
là những phạm trù triết học dù chúng phản ánh hiện thực, thể hiện thành những
quy tắc, chuẩn mực của hoạt động, thành những triết lý, thành các cái chung văn
hóa. Các triết lý có thể hoạt động và phát triển cả ở bên ngoài các hệ thống
triết học, nhưng chúng lại vốn có trong các nền văn hóa mà ở đó, chưa có những
hình thức phát triển của các hệ thống triết học.
Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống
xã hội và cá nhân, mỗi yếu tố đều hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, liên hệ với
nhau. Trong các triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố
cơ bản và các mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan
hệ xã hội, đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những
quan niệm ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình phương thức hoạt động
chung của xã hội và được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng
cho hoạt động của các cá nhân và cộng đồng.
Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những
phương án sống và hoạt động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hóa khác nhau
và ăn sâu trong ý thức con người. Đồng thời chúng cũng gắn liền với những nội
dung, phương thức, chương trình hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể hiện
những đặc điểm của phương thức giao tiếp và hoạt động của con người, của việc bảo
tồn, chuyển tải kinh nghiệm xã hội và thang bậc giá trị. Chúng mang đặc trưng
dân tộc và chủng tộc trong mỗi nền văn hóa, xác định đặc điểm của các nền văn
hóa khác nhau, ý nghĩa của những triết lý trong văn hóa sẽ được các cá nhân thận
thức và chúng sẽ xác định tầm quan niệm về thế giới, hành động và cách xử thế của
các cá nhân. Ý nghĩa của những triết lý ở tầm nhóm và cá nhân sẽ được hiệu chỉnh
cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của họ.
Hoạt động của các chương trình sinh học (bản năng ăn uống, tự
bảo vệ, tính dục .v.v.. ) ở con người trải qua quá trình xã hội hóa, giáo dục,
được thực hiện dưới hình thức triết lý văn hóa xác định. Rất nhiều những biểu
hiện có thể có của các chương trình sinh học bị cấm do văn hóa. Văn hóa “cấm kỵ”
nhiều tham vọng, ước muốn thể hiện tự do các bản năng động vật thông qua việc
giáo dục, rèn luyện con người ngay từ thời thơ ấu; văn hóa bao hàm cả cái vô thức
xã hội, được di truyền giữa các thế hệ, giữa người này với người kia. ở góc độ
này, văn hóa cũng như các triết lý nói chung mang ý nghĩa và giá trị xã hội rất
to lớn (1)
Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa của riêng mình.
Trong văn hóa dân tộc có những định đề, nguyên tắc, cách hành xử được thể hiện
theo cách riêng. Điều đó có nghĩa là dân tộc nào cũng có những triết lý điều chỉnh
cuộc sống và hoạt động của mình. Dân tộc nào cũng có nền văn hóa của mình, có
những tư tưởng triết học và đặc biệt, có rất nhiều những triết lý phong phú, đa
dạng. Nhưng không phải dân tộc nào cũng có các hệ thống triết học bác học, hàn
lâm riêng. Các hệ thống triết học bác học, hàn lâm được các nhà tư tưởng tổng kết
từ sự phát triển của khoa học, thực tiễn và lịch sử xã hội, hay nói cách khác,
là sự phát triển của văn hóa dân tộc, trong đó có cả các hệ thống triết học bác
học đã được xây dựng trước đó.
Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết học, các tư
tưởng triết học; là điều kiện, chất liệu và nguồn gốc cho sự phát triển của triết
học. Một dân tộc có thể không có hệ thống triết học riêng nhưng không thể không
có văn hóa riêng của mình. Không có văn hóa riêng của mình, dân tộc sẽ không thể
tồn tại được. Văn hóa là điều kiện cần thiết, tất yếu của sự tồn tại của mỗi
dân tộc cả về phương diện đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Theo nghĩa
đó, văn hóa cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các hệ
thống triết học.
Trong mỗi một nền văn hóa dân tộc bao giờ cũng bao hàm những
triết lý về con người, cuộc sống, xã hội và thế giới nói chung. Nhưng đó chưa
phải là hệ thống triết học. Những cái chung, những triết lý đó có thể rời rạc,
tản mạn, không liên kết chặt chẽ, lôgíc được với nhau, mặc dù chúng có thể là
những triết lý sâu sắc. Chúng thể hiện sự suy tư, đúc kết kinh nghiệm, tri thức
của con người về những mặt, những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ trong đời sống.
Chúng có thể được thể hiện bằng ca dao, tục ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến
trúc, cách hành xử trong cuộc đời. Đối với người Việt Nam, "Bầu ơi thương
lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" từ lâu đã là một
triết lý sống, một cách hành xử trong quan hệ giữa người với người. Nhưng đó
chưa phải là triết học, càng chưa phải là một hệ thống triết học.
Khác với các hệ thống triết học bác học do các nhà tư tưởng,
các nhà khoa học hoàn toàn xác định tạo ra, các triết lý, thường là Vô danh, xuất
hiện và tồn tại trong các hình thức khác nhau: ca dao, tục ngữ, trong cuộc sống
thường ngày, trong kiến trúc, v.v.. Không thể xác định được chính xác thời gian
ra đời của một cái chung, một triết lý cụ thể nào đó. Nhưng có thể xác định được
tác giả và thời gian xuất hiện của một hệ thống triết học cụ thể. Những triết lý,
những cái chung phong phú và đa dạng đó tồn tại lâu đời trong cuộc sống của mỗi
cộng đồng dân tộc, nhưng chúng chỉ có thể tồn tại bên cạnh nhau, phản ánh các mặt,
các quá trình cụ thể của đời sống xã hội mà không thể tạo thành một hệ thống
triết học có kết cấu lôgíc bên trong, như một lý thuyết hay hệ thống lí luận
triết học. Chúng không thể có tính khái quát cao và tính hệ thống chặt chẽ như
các hệ thống triết học bác học.
Các triết lý đó nằm ngay trong văn hóa dân tộc, chúng không
tách rời mà gắn chặt với văn hóa theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, trong cả văn
hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Chúng hoà vào văn hóa dân tộc và là một yếu
tố cấu thành căn bản có ý nghĩa quyết định chiều sâu của văn hóa dân tộc. Ở một
góc độ nhất định, có thể nói, các triết lý ấy chính là lớp trầm tích cô đọng của
văn hóa dân tộc. Tuy không phải là toàn bộ nền văn hóa, nhưng chúng là yếu tố cốt
lõi tạo nên chất lượng của nền văn hóa, làm cho văn hóa phong phú và sâu sắc
hơn.
Mặt khác, chính văn hóa dân tộc là nguồn sữa bất tận nuôi dưỡng
và phát triển các triết lý. Quy mô, cường độ và năng lực lao động của một dân tộc
càng lớn, nền văn hóa càng phát triển thì càng làm cho các triết lý của họ
phong phú, sâu sắc, đa dạng, toàn diện, thể hiện đời sống con người và xã hội đầy
đủ hơn. Sự phát triển của văn hóa dân tộc cung cấp chất liệu cho sự xuất hiện,
tồn tại và phát triển các triết lý. Theo chiều ngược lại, các triết lý lại có
tác dụng định hướng và thúc đẩy các hoạt động, hành vi và giao tiếp của con người,
theo hướng có văn hóa, sáng tạo, mở rộng và phát triển văn hóa. Các triết lý là
những khuôn mẫu, định hướng và do vậy, là cơ sở trực trếp cho sự phát triển tiếp
theo của văn hoá.
Chính vì vậy, các triết lý là bộ phận cấu thành cốt lõi và
quan trọng của văn hóa. Hơn nữa, trong mỗi nền văn hóa dân tộc, các triết lý
thường gần gũi, gắn bó trực tiếp với đời sống thường ngày của con người, nó được
truyền tải thông qua giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình; được con người tiếp
thu qua kinh nghiệm, học hỏi ở bạn bè… Mặt khác, các triết lý mới đạt tầm kinh
nghiệm chứ chưa phải ở tầm trình độ lý luận. Do vậy, chúng dễ hiểu, dễ vận dụng,
sát hợp với tâm thức, bản sắc, tính cách của cộng đồng và dễ đi sâu vào con người,
dễ tiếp thu và định hướng hoạt động, giao tiếp của con người nhẹ nhàng hơn so với
các nguyên lý lý luận trong các hệ thống triết học.
Thực tiễn cho thấy, mọi nền văn hóa dân tộc không thể thiếu
vắng các triết lý, bởi đó chính là những định hướng hoạt động, giao tiếp và
phát triển của họ. Một nền văn hóa càng phát triển thì số lượng và chiều sâu của
các triết lý càng lớn. Càng gần với hiện đại thì số lượng và chiều sâu, tính đa
dạng, đa diện của toàn bộ các triết lý càng lớn. Càng ngược về quá khứ xa xưa
thì số lượng và chiều sâu, tính đa diện và đa dạng của tổng thể các triết lý
càng nhỏ lại. Khi hệ thống các triết lý tăng thêm cả về số lượng lẫn chiều sâu
thì những yếu tố khác của văn hóa dân tộc cũng phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, bởi các triết lý phát triển và mở rộng đến đâu thì chúng mở đường, tạo
hướng, dựng khuôn mẫu cho các hành vi, giao tiếp và hoạt động để tạo ra những
giá trị văn hóa mới, môi trường văn hóa mới, sản phẩm văn hóa mới.
█
Một chiều cạnh khác trong mối quan hệ văn hóa và triết học
liên quan đến các triết lý trong nền văn hóa dân tộc là vai trò của các triết
lý đối với các hệ thống triết học bác học. Chỉ một số dân tộc có các hệ thống
triết học bác học. Các hệ thống triết học luôn ở tầm lý luận cao so với các triết
lý trong nền văn hóa dân tộc. Chúng cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của
văn hóa dân tộc. Có thể nói, các học thuyết triết học bác học là sự kết tinh
cao độ ở tầm lý luận các triết lý trong văn hóa dân tộc, thể hiện thế giới quan
và nhân sinh quan của dân tộc ở thời đại đó được khúc xạ qua lăng kính của các
nhà triết học cụ thể. Các triết lý trong nền văn hóa dân tộc chính là những chất
liệu trực trếp để tạo nên kết cấu cho mọi yếu tố của các hệ thống triết học bác
học. Một mặt, các triết lý có thể tham gia ít nhiều bằng nội dung kiến thức, bằng
cách tư duy, suy luận… vào hệ thống triết học dưới dạng nguyên mẫu. Mặt khác,
nhiều triết lý tham gia vào học thuyết triết học bác học một cách gián tiếp
thông qua việc tác động vào tư duy, ý thức của nhà triết học trong quá trình học
tập, qua kinh nghiệm cuộc sống, qua tiếp thu kinh nghiệm của người khác ngay từ
khi hệ thống đó bắt đầu hình thành, phát triển và được diễn đạt thành lý luận
có hệ thống.
Văn hóa dân tộc là môi trường sống, nguồn nuôi dưỡng các hệ
thống triết học bác học. Các hệ thống triết học bác học là sản phẩm trước hết của
nền văn hóa dân tộc, chúng được tích tụ, chưng cất và thăng hoa qua tài năng nhận
thức, suy tư và bản lĩnh của các triết gia. Không chỉ chất liệu của các hệ thống
triết học bác học được tích tụ và trầm lắng, tinh luyện từ văn hóa mà cả năng lực
nhận thức, suy tư và bản lĩnh cùng những phẩm chất khác của các triết gia sáng
tạo nên các hệ thống triết học bác học cũng đều được nẩy mầm, nuôi dưỡng trong
nền văn hóa dân tộc.
Bản thân các hệ thống triết học bác học cũng là một yếu tố cấu
thành cơ bản và quan trọng của văn hóa dân tộc, nếu nền văn hóa dân tộc đó có
các hệ thống triết học bác học. Không thể nói rằng phải có một nền văn hóa phát
triển cao mới có thể có được các hệ thống triết học bác học. Nhưng không có một
nền văn hóa dân tộc phát triển đến một mức độ nhất định thì không thể có các hệ
thống triết học bác học. Trong lịch sử phát triển của các dân tộc trên thế giới
từ thời cổ đại đến nay, các hệ thống triết học bác học đều được ra đời trong
lòng những nền văn hóa phát triển sâu rộng và rực rỡ: Hy Lạp, La Mã cổ đại, Ấn
Độ, Trung Hoa, Đức, Pháp, Anh, Nga… Mặt khác, cũng phải thấy một thực tế là mỗi
một dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình bao chứa trong đó vô vàn các triết
lý khác nhau.
Trong nền văn hóa dân tộc, các triết lý là nguồn dinh dưỡng
trực tiếp của các hệ thống triết học bác học, bởi chúng đã được chưng cất, gạn
lọc, tồn tại dưới dạng những tri thức khái quát, những định hướng cho các hành
vi, hoạt động và giao tiếp của con người. Một nền văn hóa chưa phát triển đến mức
có những triết lý thì chưa thể có được các hệ thống triết học bác học. Các yếu
tố khác của nền văn hóa cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào sự
hình thành và phát triển của tư duy triết học, và các tư tưởng triết học, các hệ
thống triết học bác học. Nhưng tác động thông qua các triết lý là tác động cơ bản
và quan trọng nhất. Giống như các tác phẩm văn học bác học, các hệ thống triết
học bác học cũng được nuôi dưỡng từ chính nền văn hóa dân tộc.
Trên thực tế, không có sự tách rời giữa văn hóa dân tộc và
toàn bộ các triết lý của dân tộc tồn tại trong nền văn hóa đó. Các hệ thống triết
học bác học cũng vậy, nhưng điểm khác với hệ thống triết lý là chúng thuộc một
tầng bậc cao hơn về mức độ khái quát; về lập luận lôgíc và về tính hệ thống.
Các triết lý đơn lẻ thường không dựa trên lập luận lôgíc, mức
độ khái quát thấp; do đó, tính hệ thống của chúng không cao như trong các hệ thống
triết học bác học. Là kết quả của sự tổng kết, khái quát thành tựu phát triển của
khoa học, của đời sống xã hội, của kinh nghiệm lịch sử và cá nhân, nói cách
khác, là sự khái quát, tổng kết các bước phát triển của văn hoá; do đó, tính
khái quát của các hệ thống triết học bác học cao hơn các triết lý và văn hóa
nói chung. Các triết lý thường phản ánh các kinh nghiệm, sự việc, hành động đơn
lẻ, tản mạn, rời rạc, không thể hiện được những quy luật chung hoặc bản chất
sâu xa của hiện tượng, quá trình: Bởi vậy, nó không thể mang tính hệ thống,
tính lập luận. Nhưng nó lại là chất liệu quan trọng cho các hệ thống triết học
bác học, là khâu trung gian không thể thiếu giữa các yếu tố, bộ phận, tầng bậc
khác của văn hóa với các hệ thống triết học của dân tộc đó. Cả hai dạng đặc biệt
này (triết học và triết lý) trong văn hóa dân tộc bổ sung lẫn nhau tạo thành thế
giới quan, nhân sinh quan chung của dân tộc đó, có tác dụng định hướng cho con
người trong giao tiếp và hoạt động thực tiễn.
Cùng với sự phát triển của văn hóa và đời sống dân tộc, các
triết lý cũng như triết học biến đổi không ngừng. Có những triết lý sẽ mất tác
dụng và bị quên lãng, có những triết lý mới nảy sinh phản ánh những hiện tượng,
sự vật, quá trình mới, cũng như có hệ thống triết học sẽ đi dần vào quên lãng.
Những hệ thống triết học mới đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của đời sống xã hội
sẽ ra đời và phát triển. Những người của thời đại nguyên thuỷ hoặc thời đại nô
lệ có những triết lý mà ngày nay con người hiện đại không có. Ngược lại, những
người hiện đại đang có những triết lý mà người cổ đại không thể có. Chắc chắn
là người nguyên thuỷ không nói “quý như vàng”, một triết lý mà người hiện đại vẫn
thường dùng. Tình hình cũng tương tự như vậy trong các hệ thống triết học bác học.
Những hệ thống triết học mới của thời đại sau bao giờ cũng kế thừa các triết
lý, tư tưởng, lập luận, thành tựu của các hệ thống triết học trước đó, cải biến
chúng cho phù hợp với hệ thống triết học mới, thu nhận các triết lý mới và những
yếu tố mới khác của nền văn hoá.
Triết học mới ra đời lại bổ sung, khắc phục những thiếu sót
nhất định của văn hóa dân tộc thúc đẩy nó phát triển lên một trình độ cao hơn.
Triết học vừa thể hiện sự phản tư của văn hóa dân tộc, vừa là một mặt cơ bản, một
khu vực trọng yếu của văn hóa dân tộc. Triết học chính là văn hóa dân tộc ở tầm
lý luận cao nhất, là sự khái quát các thành tựu của văn hóa trong các lĩnh vực
khác nhau từ khoa học đến thực tiễn, từ trí thức đến kinh nghiệm sống, từ quá
khứ lịch sử đến hiện tại và tương lai. Chính vì vậy triết học có tác dụng định
hướng thế giới quan cho sự phát triển trếp theo của văn hóa dân tộc, chỉ đạo
hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người trong sáng tạo văn hóa mới, trong
tiếp nhận và hưởng thụ các thành tựu văn hóa nói chung.
Triết học muốn đạt đến đỉnh cao lý luận thì phải tổng kết và
khái quát được sự phát triển của toàn bộ các lĩnh vực văn hóa. Điều đó đòi hỏi
các nhà triết học phải có nhãn quan văn hóa rộng lớn, sự hiểu biết rộng và sâu
sắc các lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa dân tộc. Triết học càng đứng ở
đỉnh cao lý luận, phạm vi và mức độ khái quát, tổng kết càng sâu sắc sẽ càng có
tác động định hướng lớn cho nhiều lĩnh vực khác nhau của văn hóa. Sự tác động định
hướng này có thể thông qua con đường trực tiếp bằng cách tiếp nhận các tri thức
lý luận triết học, có thể bằng con đường gián tiếp, thông qua việc tiếp nhận
các triết lý nằm trong chính hệ thống triết học hoặc được triết học cải biến,
chỉnh sửa, chính xác hóa trong quá trình phát sinh và tồn tại. Mỗi con người sống,
hoạt động và giao tiếp luôn được chỉ đạo bởi một số lý luận triết học và triết
lý xác định.
Trong ý thức và cuộc sống của mỗi người, dù tự giác hoặc
không tự giác thì họ vẫn bị các triết lý và triết học chi phối. Toàn bộ văn
hóa, trong đó cốt lõi là các triết lý và triết học tạo thành khung mẫu, chuẩn mực,
giá trị, thước đo, định hướng của các hành vi, hoạt động và giao tiếp của con
người. Trong quan hệ với văn hóa, toàn bộ các triết lý và triết học lại tạo
thành một hệ thống khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng, cơ sở,
nền tảng cho sự sáng tạo, tiếp nhận và hưởng thụ văn hóa của con người. Mặt
khác, đời sống văn hóa, trong quá trình phát triển lại góp phần làm bộc lộ những
hạn chế, thiếu sót, sai lầm của các triết lý và hệ thống triết học; từ đó, hoàn
thiện, sửa chữa hoặc loại bỏ chúng ra khỏi ý thức và cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển, các triết
lý và hệ thống triết học khi tạo thành khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo,
định hướng cho văn hóa thì chúng lại có thể trói buộc, kìm hãm sự phát triển của
văn hóa, đặc biệt là kìm hãm tư duy và năng lực sáng tạo văn hóa của con người.
Các triết lý, hệ thống triết học đã lạc hậu, lỗi thời, hoặc có sai lầm thường bắt
đầu có tác dụng ngược bằng việc thể hiện những mâu thuẫn của chúng với các triết
lý, hệ thống triết học và với văn hóa nói chung, thậm chí giữa chúng với văn
hóa sẽ bắt đầu một thời kỳ xung đột. Trong quá trình xung đột văn hóa dần dần
thể hiện nhu cầu đổi mới, thay thế các triết lý và triết học cũ bằng các triết
lý và triết học mới. Đồng thời văn hóa sẽ tạo ra, bồi đắp và tích tụ dần các chất
liệu cho sự ra đời các triết lý mới hoặc hệ thống triết học mới.
Sự xung đột giữa triết học và văn hóa dần tạo nên những tiền
đề văn hóa cho việc giải quyết cuộc xung đột ấy và sau đó là các phương tiện
giúp cho việc giải quyết xung đột .Văn hóa sẽ tiến triển từng bước, giải quyết
dần các vấn đề đơn lẻ, nhỏ bé và tiến tới những vấn đề lớn hơn, tạo ra những chất
liệu văn hóa mới, đáp ứng những đòi hỏi mới của sự phát triển, bổ sung vào kho
tàng văn hóa dân tộc những kiến thức mới, những triết lý mới, những giá trị văn
hóa mới. Trên cơ sở tích tụ đó, văn hóa đẩy triết học làm nên những đột phá mới,
tạo ra các hệ thống triết học mới hơn, phù hợp hơn với sự phát triển. Văn hóa
tham gia sàng lọc, gạt bỏ, bảo tồn, phát huy và chuyển tải các giá trị của triết
học cũ vào triết học mới.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là
nền tảng tinh thần của triết học. Văn hóa, theo nghĩa rộng, là nền tảng của sự
sinh tồn của loài người, đồng thời cũng là nền tảng quyết định sự ra đời, tồn tại,
phát triển và diệt vong của các hệ thống triết học. Văn hóa dù theo nghĩa rộng
hay nghĩa hẹp đều là động lực của sự phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển
của triết học. Các dân tộc có thể vay mượn các hệ thống triết học nhưng không
thể vay mượn các triết lý và càng không thể vay mượn nền văn hóa nói chung. Việc
du nhập, vay mượn, cải biên, tiếp nhận các hệ thống triết học từ bên ngoài cũng
bị quy định bởi văn hóa dân tộc nói chung và tổng thể các triết lý nói riêng.
Không hoàn toàn đồng nhất, nhưng cũng có thể hình dung rằng
triết học là ánh hào quang rực rỡ của quả cầu lửa văn hóa. Quả cầu ấy càng lớn,
càng sáng thì ánh hào quang càng rực rỡ, càng tỏa xa. Văn hóa, các triết lý và
các hệ thống triết học là ba tầng bậc khác nhau của văn hóa, đó chính là
"ba trong một" - một nền văn hóa theo nghĩa rộng.
(l) Xem: Lương Việt Hải. Lý luận và thực tiễn hiện đại hóa
xã hội ở các nước Đông và Đông Nam Á, Mátxcơva, 998; L.I.Ionin. Xã hội học văn
hóa, Mátxcơva. 996; V.X.Stepin. Thời đại của những biến đổi và kịch bản của
tương lai. Mátxcơva,. 996; Văn hóa// Bách khoa triết học mới, Mátxcơva, 200; A.
ra.Phlier. Di truyền văn hóa, Mátxcơva, 995, G.F.Mclean. Tự do, truyền thông
văn hóa và trên bộ, CRVP, 2000; Lương Đình Hải. Toàn cầu hóa và văn hóa dân tộc,
Istanbul, 2003;...
Nguồn:Tạp chí Triết học
Đánh giá bài viết?