Trình bày vấn đề cơ bản của triết học? Ý nghĩa phương pháp luận
Vấn đề cơ bản
nhất của Triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sở dĩ mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản nhất của triết học là bởi vì nó là bản chất
tiên đề, là xuất phát điểm của mọi học thuyết triết học. Bất cứ nhà triết học
nào, dù muốn hay k muốn, dù bằng cách này hay cách khác đều phải giải quyết vấn
đề này. Ăng-ghen cũng đã khẳng định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn
đề cơ bản của triết học hiện nay.
Vấn đề cơ bản
của Triết học có 2 mặt:
1. Trả lời
cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
Để trả lời
cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học có 3 quan điểm:
Quan điểm
1: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, ý thức quyết định vật chất.
Những người theo quan điểm này được gọi là những người theo chủ nghĩa duy vật.
CNDV có 3 dạng thái:
- CNDV ngây
thơ: những kết luận mà họ đưa ra về thế giới chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm
và việc quan sát sự vật 1 cách trực tiếp. Do vậy, những kết luận mà họ đưa ra về
thế giới nhìn chung là đúng nhưng chưa đủ sâu sắc và không mang bản chất vấn đề.
Đại biểu: Talet, Heraclit, Democrit.
- CNDV siêu
hình: nó bị ảnh hưởng bởi bộ máy cơ học hữu cơ, tư duy siêu hình máy móc khi
xem xét, quan sát sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận động và phát triển, k
có mối liên hệ với sự vật khác. Do vậy, những kết luận mà họ đưa ra về thế giới
nói chung là sai, thậm chí có trường hợp còn méo mó, sai sự thật. Đại biểu:
Đêcactơ, Hopxo
- CNDV biện
chứng (đối lập vs CNDV siêu hình): xem xét, đánh gía các sự vật, hiện tượng
trong trạng thái vận động và phát triển, trong mối quan hệ với các sự vật khác.
Do vậy, những kết luận mà họ đưa ra về thế giới nhìn chung là đã đánh giá được
một cách đầy đủ và trung thực. Đại biểu: Các Mác và Ăng-ghen.
Quan điểm
2: Ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức quyết định vật chất.
Những người theo quan điểm này được gọi là những người theo chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
- CNDT
khách quan: quan niệm rằng có 1 thế giới tồn tại khách quan, đối lập với ý thức
và nhận thức của con người. Nó vĩnh hằng, luôn vận đông và biến đổi. Trong quá
trình “tha hóa” của nó hình thành nên thế giới hiện thực. Do vậy, theo quan điểm
của họ thì thế giới hiện thực là cái bóng của thế giới tinh thần và chịu sự quyết
định của thế giới tinh thần. Đại biểu: Hê-ghen, Phlaton.
- CNDT chủ
quan: quan niệm rằng thế giới của chúng ta tồn tại được là do những cảm xúc phức
hợp với nhau. Tất cả sự tồn tại của sự vật đều do ý thức của con người quyết định,
đều phụ thuộc vào ý thức của con người. Đại biểu: Canto, Hyum.
Quan điểm
3: Vật chất và thế giới song song tồn tại, không có cái nào có trước, không có
cái nào có sau, không có cái nào có sau, không có cái nào quyết định cái nào.
Đây được gọi là “Nhị nguyên luận”. Theo thuyết này thì vật chất và ý thức cùng
sinh ra thế giới.
Những người
theo chủ nghĩa duy vât và chủ nghĩa duy tâm cùng được gọi chung là “Nhất nguyên
luận”, tức là chỉ có 1 cái sinh ra thế giới, hoặc là vât chất, hoặc là ý thức.
1. Trả lời
cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Hay nói
cách khác những hình ảnh của con người hay những tri thức mà con người có được
về thế giới có phải là sự phản ánh một cách đầy đủ và trung thực về bản chất của
thế giới hay không?
Để trả lời
cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học có 2 quan điểm:
Quan điểm 1:
Khả tri luận: con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới. Sự nhận
thức của mỗi cá nhân là hữu hạn nhưng sự nhận thức của loài người từ thế hệ này
qua thế hệ khác lại là vô hạn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người hoàn
toàn có thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, theo thuyêt này thì sự nhận thức
được biểu hiện theo những cách khác nhau:
- Những người
theo CNDT khách quan cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng lại của linh hồn bất tử.
- Những người
theo CNDT chủ quan cho rằng nhận thức là cái có sẵn dưới dạng bẩm sinh. Chủ thể
của nhận thức phải biết tạo điều kiện cho tri thức của mình được bộc lộ, phát
huy.
- Những người
theo quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng định nhận thức là một quá trình lâu
dài, gian khổ và phức tạp, đi từ cái chưa biết đến biết và biết nhiều thông qua
sự tác động của con người vào thế giới tự nhiên, từ đó con người hình thành nên
tri thức.
Quan điểm
2: Bất tri luận: Con người hoàn toàn không có khả năng nhận thức được thế giới.
Nếu có nhận thức được thế giới thì đó chỉ là bề ngoài, chứ không nhận thức được
bản chất bên trong.
* Ý nghĩa
- Chính nhờ
việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà từ đó hình thành nên các trường
phái triết học khác nhau.
- Cuộc chiến
giữa trường phái duy tâm và trường phái duy vật từ lúc bắt đầu cho đên nay vẫn
luôn là cuộc chiến gay go, sôi động nhất.
- Nghiên cứu
thấu đáo các vấn đề cơ bản để từ đó giải thích được hiện tượng mê tín dị đoan
và tìm giải pháp khắc phục.
Đánh giá bài viết?